Những ngôi Đình cổ ở TP.Hồ Chí Minh: Đình Bình Đông (Phần 1)

Đình Bình Đông nằm trên một cù lao với kênh rạch bao quanh trông như một hòn đảo nhỏ trên sông - một thắng cảnh nổi bật, là di tích lịch sử quý giá và là địa chỉ du lịch sinh thái hấp dẫn của TP.Hồ Chí Minh.


Cổng đình Bình Đông

Theo dòng lịch sử

Đình Bình Đông được xây dựng trên cù lao ngay nhánh rẽ của dòng Kinh Đôi, thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Từ cầu Bà Tàng vào khoảng 300 mét, theo con rạch cùng tên là rạch Bà Tàng, ta thấy một cù lao nhỏ, rộng khoảng 2 héc ta. Trên cù lao có một ngôi đình kiến trúc rộng rãi, uy nghi, cổ kính. Tại đây, vào ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, dân chúng ở các nơi trong thành phố và ở các tỉnh bạn đến cúng bái đông đảo. Đó là đình Bình Đông mà ngày trước nhân dân thường gọi là "Bình Đông Hội Quán".

Theo lời các vị bô lão kể lại đã lâu lắm rồi, nơi ngôi đình hiện nay, dân cư hồi đó thưa thớt làm ăn khó khăn. Một hôm, có người vớt được chiếc mão trôi trên rạch, đoán rằng của quan quân nào đó bị nạn, nên đưa lên gò và khấn vái. Lạ thay, sau đó, vùng này trúng mùa liên tục, dân làng làm ăn khấm khá qui tụ về dựng nên mái đình ngày nay. Nơi bệ thờ chính luôn luôn có những chiếc mão mới được dân làng sùng bái dâng cúng cho đến tận bây giờ.

Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, thôn Bình Đông thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình (1818). Đình có sắc phong Tự Đức ngũ niên (1853). Như vậy đình Bình Đông phải được xây dựng trước năm 1853, tức trước năm nhận được sắc. Sắc phong cho Thần "Thành hoàng bổn cảnh" của thôn Bình Đông, huyện Tân Long ghi ngày 29 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tý (08/01/1853).

Bên trong đình Bình Đông

Lúc đầu, kiến trúc của đình chỉ là ngôi nhà lá, dùng làm nhà làng cho dân cư quanh vùng tới hội họp và cúng bái. Đến năm 1922 được trùng tu bằng mái ngói, vách ván, cột kèo gỗ theo dạng đình Nam Bộ với võ ca và chánh điện nằm giữa, hai bên có Đông và Tây lang, bên cạnh lại có nhà Nghĩa Từ. Đến năm 1930, đình xuống cấp nên được sửa chữa lớn, mái ngói được thay bằng ngói đại ống 2 lớp, vách trét ô dước, nền gạch tàu.

Năm 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đình bị bom đánh sập một phần võ ca, chánh điện và nghĩa từ. Mãi đến năm 1991, đình được xây dựng lại với kết cấu bằng nguyên vật liệu nặng (bêtông - cốt sắt) nhưng kiến trúc tổng thể vẫn giữ nguyên. Lần xây dựng này có thêm nhà Truyền Thống.

Tuy toàn bộ cảnh quang không thay đổi nhưng kết cấu không còn nét xưa. Nổi bật còn lại vẫn là các hiện vật bên trong chánh điện như toàn bộ khám thờ thần, Tả Hữu ban, Hội đồng đều chạm thủng viền quanh với rồng vờn châu, từng lộc, tứ linh rất nghệ thuật. 

Võ ca

Trên bàn thờ Thần có khánh đựng mão thần, bộ bát bửu bằng đồng, lư hương bình hoa bằng gốm quí. Trước bàn thờ bố trí bộ lỗ bộ đầu bịt đồng rất quí. Chung quanh cặp liễn có chạm các hoa văn rất nghệ thuật. Ngoài ra còn có 4 cặp liễn khác cùng kích cỡ, cùng mang tính nghệ thuật chạm trổ với nội dung ca ngợi công đức Thần được treo tuần tự theo cung cách thờ cúng. 

Trong chánh điện còn lưu giữ những bao lam chạm trổ hình dáng: mai, lan, cúc, trúc, mẫu đơn, sóc, giác trên các loại gỗ quí. Các hoành phi của Đình Bình Đông có ghi niên đại 1870 treo trên cửa chánh điện và bức "Diệu - Diệu anh linh" niên đại 1850. Bên cạnh đó Đình còn có miếu Ngũ Hành, bàn thờ Thần Nông, miếu Ông Tà bố trí theo tục lệ trước mặt võ ca.

Tục thờ thành hoàng và lễ Kỳ Yên      

Ngược dòng lịch sử thấy rằng, trong quá trình Nam tiến, cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam bộ đã gặp không ít gian nan, thử thách. Khi con người dần dần chinh phục và hòa hợp với thiên nhiên, mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn định, thì tùy theo vùng đất, tiền bạc, công sức đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình. Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy. 

Cũng như các đình làng khác ở nước ta, các đình ở Sài Gòn – Gia Định xưa  có chung đặc điểm về giá trị văn hóa, đó là một trung tâm tín ngưỡng, hoạt động văn hoá, văn nghệ, giáo dục truyền thống, duy trì những thuần phong mỹ tục. Các chức năng đó đan xen, hòa quyện với nhau. Cho dù có một số khác biệt so với tín ngưỡng truyền thống, nhưng cơ bản, đình đã đáp ứng được nhu cầu về tâm linh của con người, đó là cầu mong được bình an vô sự giữa chốn rừng thiêng nước độc này.

Ngũ hành Thánh Mẫu

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, vào khoảng từ thế kỷ XV, đình không còn chức năng thờ Phật như trong những thế kỷ trước, mà là nơi thờ Thành hoàng. Thành hoàng có thể là những người có công với nước, với dân... Thành hoàng làng cũng có thể là người có công đầu trong việc lập làng, hoặc khởi xướng một ngành nghề, tức các vị tổ nghề. Đôi khi Thành hoàng làng chỉ là những nhân vật huyền thoại. Đình cũng có thể thờ những anh hùng cái thế của dân tộc, từ vua chúa đến các danh nhân, các vị tổ các dòng họ có công lập làng và những người có nhiều công đức với làng tuy không được tôn làm Thành hoàng. Đây là một nét văn hóa tín ngưỡng thể hiện sự tri ân của hậu bối đối với tiền nhân - những vị có công dựng làng, lập ấp, tạo chợ, xây cầu, khai khẩn đất hoang…

Theo tục lệ xưa ở Nam bộ, hàng năm các ngôi đình dù nhỏ hay lớn cũng đều tổ chức cúng đình hay còn gọi là Lễ Kỳ Yên, tức là lễ Cầu An, thường được tổ chức vào mùa xuân hoặc mùa thu.  Vào các ngày này, dân làng mở hội đình để tưởng niệm công tích của các vị thần. 

Lễ Kỳ Yên ở đình Bình Đông

Lễ Kỳ Yên đình Bình Đông hàng năm được tổ chức trong hai ngày 12 và 13 tháng hai âm lịch, thu hút đông đảo bà con trong khắp khu vực Sài Gòn Chợ Lớn (xưa) và nay thuộc các quận 8, 11, 5, 4, Bình chánh và miệt Cần Giuộc, Cần Đước - Long An, cả người Việt lẫn người Hoa tham dự. Lễ Kỳ Yên tự diễn ra theo nghi thức được truyền tụng như đầu lễ là Túc yết, chính lễ là Đoàn (Đàn) cả diễn ra trịnh trọng có tế thần gọi là lễ Thỉnh Sanh. Trong lễ có chánh bái bồi bái, học trò lễ, đào thái theo chiêng trống, kèn của nhạc mà hành lễ. Tiếp có lễ “hát bội” trước là lễ hầu thần, sau phục vụ bà con đến chiêm bái. 

Năm nào lễ cúng Kỳ Yên của Đình  Bình Đông cũng thu hút hàng vạn người dân đến chiêm ngưỡng cúng bái. Các đình làng lân cận hoặc ở xa tận Long An cũng cử đoàn đến dâng lễ. 

(Còn tiếp)

Văn Nguyễn